Quyền của người cao tuổi Việt Nam được thể hiện trong Hiến pháp 2013, Luật Người cao tuổi 2009, Luật Bảo hiểm xã hội 2014, Luật Bảo hiểm y tế 2008 (sửa đổi, bổ sung 2014), Luật Khám chữa bệnh 2009, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình 2007, Luật Việc làm 2009, Luật Người khuyết tật 2010... Những văn bản này tạo ra khung pháp lý vững chắc bảo đảm những quyền và lợi ích cơ bản sau của người cao tuổi: Quyền không bị phân biệt đối xử (Khoản 3 Điều 37 Hiến pháp 2013 và Khoản 1 Điều 9 Luật Người cao tuổi 2009); Quyền về an sinh xã hội (Điều 3 Luật Người cao tuổi); Quyền có việc làm (Tại điểm đ, khoản 1, Điều 3 Luật Người cao tuổi 2009); Quyền được tham gia vào đời sống văn hóa, xã hội (Điều 15 Luật Người cao tuổi 2009); Quyền được phụng dưỡng, chăm sóc sức khỏe; Quyền được phát huy vai trò trong xã hội (quyền được tôn trọng)...
Trong đó, một số quyền quan trọng của người cao tuổi đó là:
Quyền về an sinh xã hội
Nhóm quyền này được thể hiện cụ thể trong Hiến pháp 2013, Luật Người cao tuổi 2009, Luật Bảo hiểm xã hội 2014, Luật Bảo hiểm y tế 2008, Nghị định số 58/2019/NĐ-CP quy định về mức trợ cấp người có công với cách mạng. Xuất phát từ nguyên tắc “tôn trọng người cao tuổi” được quy định tại Hiến pháp 2013, Điều 3 Luật Người cao tuổi 2009 tiếp tục khẳng định người cao tuổi, đặc biệt là người nghèo, không nơi nương tựa, có nhiều công lao đóng góp cho xã hội, người già trong hoàn cảnh bị thiên tai hoặc rủi ro bất khả kháng khác, sức khỏe giảm sút không có khả năng lao động được bảo đảm các nhu cầu cơ bản về ăn, mặc, ở, đi lại, chăm sóc sức khỏe thông qua sự hỗ trợ từ Nhà nước như ưu tiên nhận tiền, hiện vật, miễn các khoản đóng góp cho xã hội, ưu tiên sử dụng dịch vụ theo quy định của pháp luật. Chế độ hưởng cụ thể được quy định tại Luật Bảo hiểm xã hội 2014 và Nghị định số 58/2019/NĐ-CP quy định về mức trợ cấp người có công với cách mạng.
Quyền được phụng dưỡng, chăm sóc sức khỏe
Tại khoản 2 Điều 71, khoản 2 Điều 104, Điều 111 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 và Luật Người cao tuổi 2009 về quyền phụng dưỡng, chăm sóc sức khỏe cho người cao tuổi có quy định, con cháu trong gia đình có nghĩa vụ kính trọng, chăm sóc ông bà; con cái có nghĩa vụ phụng dưỡng, nuôi dưỡng cha mẹ đặc biệt khi cha mẹ mất năng lực hành vi dân sự, ốm đau, già yếu, khuyết tật. Đồng thời, người cao tuổi cũng có quyền quyết định sống chung với con, cháu hoặc sống riêng theo ý muốn. Trong trường hợp người cao tuổi không sống chung với con đã thành niên, con cái phải có nghĩa vụ cấp dưỡng cho cha, mẹ trong trường hợp cha, mẹ không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. Bên cạnh đó, đối với hành vi vi phạm quyền của người cao tuổi có những văn bản tương ứng để xử lý kịp thời như Nghị định 110/2009/NĐ-CP về xử phạt hành chính trong lĩnh vực bạo lực gia đình (phạt tiền, buộc công khai xin lỗi), Bộ luật Hình sự 2014 (coi tình tiết “phạm tội là người già là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự”; tội ngược đãi ông, bà, cha, mẹ, vợ, chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình tại Điều 151, tội từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng tại Điều 152...). Bên cạnh đó, tại Điều 21 Luật Người cao tuổi 2009 có quy định về chúc thọ, mừng thọ người cao tuổi. Đây không chỉ là truyền thống tốt đẹp của dân tộc mà là nguồn động viên, khích lệ lớn về tinh thần đối với người cao tuổi.
Quyền được phát huy vai trò trong xã hội (Quyền được tôn trọng)
Nhằm phát huy trí tuệ, tri thức và sức đóng góp của người cao tuổi ở trong xã hội, người cao tuổi có chuyên môn được Nhà nước khuyến khích kéo dài thời gian công tác, tham gia các hoạt động giáo dục thế hệ trẻ truyền thống yêu nước, tình đoàn kết, xây dựng đời sống văn hóa, phong trào khuyến học, truyền tải kinh nghiệm, tri thức, tư vấn chuyên môn, hòa giải mâu thuẫn tranh chấp ở cộng đồng, thực hiện pháp luật dân chủ cơ sở, là tấm gương đi đầu trong công tác phòng, chống lãng phí, đóng góp ý kiến xây dựng pháp luật./.